Hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình là một trong những hoạt động giúp nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, qua đó, tạo sức lan tỏa trong cộng đồng để nghiêm khắc lên án hành vi bạo lực gia đình, hướng tới xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc.
Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 24-6-2021, của Ban Bí thư “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới” khẳng định, gia đình Việt Nam có vai trò quan trọng với cá nhân và xã hội, là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước.
Hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình được hiểu là việc gia đình, dòng họ, cơ quan, tổ chức và tổ hòa giải ở cơ sở thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt bạo lực, mâu thuẫn, tranh chấp một cách ổn thỏa, phục hồi lại cuộc sống, tâm lý của cá nhân, gia đình.
Hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình là quá trình người/tổ hòa giải thực hiện hoạt động phân tích, tư vấn, hướng tới sự đồng cảm và sẵn lòng lắng nghe nỗi đau của nạn nhân, sự thừa nhận những tổn thương và chấp nhận thay đổi thái độ, hành vi của người gây ra hành vi bạo lực.
Quá trình hòa giải là giải quyết và cố gắng hàn gắn chia rẽ, khép lại vụ việc và chữa lành vết thương, mang lại công lý cho nạn nhân; phục hồi cuộc sống và tâm lý của các nạn nhân; thúc đẩy sự đồng cảm, sẻ chia gắn với trách nhiệm của đối tượng gây ra bạo lực; từ đó, khôi phục cuộc sống bình yên cho gia đình và cộng đồng. Đây là một quá trình thay đổi sâu sắc, liên quan đến thay đổi thái độ, nguyện vọng, cảm xúc, thậm chí có thể cả niềm tin. Sự thay đổi sâu sắc như vậy không thể vội vàng hoặc áp đặt, mà cần có thời gian, cũng như không có công thức thành công chung cho mọi trường hợp.
Quá trình hòa giải không chỉ nghiêm khắc lên án hành vi bạo lực gia đình, mà còn góp phần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vấn đề bình đẳng giới, tạo sức lan tỏa trong cộng đồng, khuyến khích những nạn nhân bị bạo lực gia đình, nhất là phụ nữ, không e ngại, không che giấu khi gặp phải hành vi bạo lực gia đình; đồng thời, xây dựng ở mỗi người dân tinh thần chủ động thông tin cho cơ quan chức năng về các hành vi bạo lực gia đình.
Thời gian qua, bạo lực đối với phụ nữ vẫn là một trong những vấn đề nhức nhối mà phụ nữ phải đối mặt trên quy mô toàn cầu. Báo cáo Điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 (trên 5.976 phụ nữ từ 15-64 tuổi) cho thấy, tuy tỷ lệ bạo lực ở các hình thức đều thấp hơn so với năm 2010, song tình hình còn khá phức tạp.
Năm 2019, cứ ba phụ nữ thì có gần hai phụ nữ (62,9%) từng bị chồng/bạn tình bạo lực thể xác, tình dục, tâm lý (tinh thần và kiểm soát hành vi) và/hoặc bị bạo lực kinh tế; có 31,6% phụ nữ chịu các hình thức bạo lực này trong năm 2019; 13,3% phụ nữ bị chồng bạo lực tình dục trong đời và 5,7% bị bạo lực này vào thời điểm khảo sát và hầu hết những phụ nữ này cũng bị bạo lực thể xác. Phụ nữ bị chồng/bạn tình bạo lực nhiều hơn so với bạo lực do người khác gây ra và chịu những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe, năng suất lao động và cuộc sống nói chung (1).
Ở Việt Nam, phần lớn phụ nữ bị chồng bạo lực không tìm kiếm sự giúp đỡ, chỉ rất ít người tìm kiếm sự giúp đỡ từ xã hội. Việc gặp gỡ, tiếp xúc với nạn nhân cũng như người gây ra bạo lực gia đình rất khó khăn do tâm lý xác định đây là việc gia đình, không muốn đưa ra ngoài xã hội; nhiều vụ bạo lực gia đình đã xảy ra song chưa được chính quyền địa phương và tổ hòa giải tham gia giải quyết kịp thời, nhất là các vụ bạo lực gia đình về tinh thần và tình dục rất khó phát hiện do tâm lý chịu đựng của phụ nữ.
Đa số các vụ việc bạo lực gia đình là do người dân phát hiện, rất ít trường hợp người bị bạo lực tố giác, yêu cầu can thiệp. Chính vì thế, công tác hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình là hoạt động cần thiết và cần đặt trong mối quan hệ giới và gia đình của không gian văn hóa Việt Nam hiện nay.
Để nâng cao hiệu quả của công tác hòa giải, góp phần phòng, chống bạo lực gia đình hiệu quả, cần lưu ý một số vấn đề sau:
Quá trình hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình cần chú ý đến chiều cạnh văn hóa và quyền lực giới.
Trước tiên, hoạt động hòa giải cần quan tâm đặc biệt đến chiều cạnh văn hóa của các mối quan hệ hôn nhân, gia đình. Chiều cạnh văn hóa của hòa giải nhiều khi ảnh hưởng đến khía cạnh pháp lý, nhất là ở khu vực nông thôn, nơi sức mạnh và tầm ảnh hưởng của dòng họ, cộng đồng truyền thống còn đậm nét.
Ví dụ, người hòa giải nhiều khi gắn các cá nhân với việc thực hành vai trò của giới theo quan niệm truyền thống thông qua các tục ngữ, thành ngữ nói về đức làm vợ, làm chồng, đề cao sự nhẫn nhịn, cam chịu của phụ nữ (như “chồng giận thì vợ bớt lời”, “một sự nhịn, chín sự lành”); về ý nghĩa của gắn kết gia đình toàn vẹn, mà bỏ quên những cam chịu, đau khổ, tổn thương của nạn nhân bạo lực gia đình. Do đó, vấn đề hòa giải bạo lực gia đình thường được tiếp cận trên quan điểm giữ gìn sự toàn vẹn gia đình là ưu tiên hàng đầu.
Chiều cạnh quyền lực giới có liên hệ mật thiết với chiều cạnh văn hóa trong hòa giải phòng, chống bạo lực gia đình. Hiện nay, những thay đổi về luật pháp, chính sách, biến đổi văn hóa và xã hội tác động mạnh tới quan hệ quyền lực giới ở Việt Nam.
Phụ nữ Việt Nam đã có những vị thế xã hội cao hơn trong gia đình, xã hội và các không gian khác mà trước đây là độc quyền của nam giới. Tuy nhiên, nhiều nơi trên cả nước vẫn còn bị ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo phong kiến với nhiều định kiến giới với phụ nữ và đề cao vai trò, vị thế của nam giới trong gia đình và xã hội.
Trong không gian gia đình Việt Nam mang đậm nét truyền thống hiện nay, mối quan hệ của giới và quyền lực thường đặt gia đình lên trên cá nhân, nam giới trên nữ giới, người cao tuổi trên người trẻ tuổi. Nam giới cao tuổi trong gia đình thường giữ vai trò quyết định trong các cuộc họp hòa giải mâu thuẫn gia đình.
Nhiều nam giới hợp lý hóa việc bạo hành vợ bằng những quan điểm chịu ảnh hưởng của phong kiến khi cho rằng, vợ phải phục tùng chồng và cho mình quyền dạy dỗ vợ bằng bạo lực. Đa số phụ nữ cho rằng, gia đình là ưu tiên, chồng được ưu tiên hơn vợ trong phát triển sự nghiệp. Điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ năm 2019 cho thấy, hơn một phần tư phụ nữ (27,2%) quan niệm rằng, người vợ tốt là phải nghe lời chồng, cho dù bản thân không đồng ý (2).
Vì thế, nhiều quá trình hòa giải được bắt đầu bởi chính những tiền đề có sẵn ở những người làm hòa giải, rằng một số mức độ bạo lực là có thể chấp nhận, có thể tha thứ (do một “lỗi” nào đó của người vợ).
Bên cạnh đó, vị thế phụ thuộc chồng về kinh tế khiến nhiều người phụ nữ bị bạo hành thường nhẫn nhịn, cam chịu, vì thế, nhiều người chồng nắm quyền kinh tế cho mình có quyền bạo hành vợ mà không cần quan tâm tới hậu quả. Với những trường hợp này, sự tham gia của người vợ vào quá trình hòa giải là ít ý nghĩa vì sự thống trị quyền lực kinh tế của chồng với vợ. Do đó, trao quyền kinh tế cho phụ nữ để họ có thể tự chủ trong cuộc sống là một giải pháp bền vững.
Đồng thời, vì muốn con cái được có đầy đủ cha mẹ, nhất là trong bối cảnh văn hóa phụ nữ Việt Nam có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với con cái hơn so với nam giới, nhiều phụ nữ bị bạo hành vẫn chịu đựng để giữ gia đình toàn vẹn cho con cái, giữ thể diện cho gia đình. Trong trường hợp này, người phụ nữ đặt quyền tự do, tự chủ cuộc sống của bản thân bên dưới sự toàn vẹn gia đình cho con cái.
Với những ảnh hưởng của các chiều cạnh văn hóa này, người hòa giải nhiều khi vô tình mang những định kiến giới để khuyên nạn nhân bạo lực gia đình nhẫn nhịn, hy sinh, tha thứ cho người gây ra bạo lực. Vì thế, cần chú trọng yếu tố văn hóa, con người, bình đẳng giới trong hòa giải phòng, chống bạo lực gia đình.
Quá trình hòa giải phòng, chống bạo lực gia đình cần tiếp cận lấy phụ nữ, người bị bạo lực làm trung tâm, tôn trọng các giá trị văn hóa và tính tự chủ của phụ nữ. Tiếp cận này chú ý tới việc tôn trọng người phụ nữ, đặt người phụ nữ bị bạo hành không chỉ là một nạn nhân đơn độc, mà còn là một người vợ, người mẹ, người con dâu, giúp người phụ nữ thấy được sự gắn bó với gia đình và cộng đồng, từ đó tìm kiếm sự chia sẻ, giúp đỡ không chỉ của các thành viên gia đình, họ hàng mà cả xã hội.
Các tổ hòa giải cần thể hiện sự sẵn sàng giúp đỡ và sự hiểu biết về hoàn cảnh gia đình của nạn nhân, động viên nạn nhân không nên cam chịu, mà cần tìm sự hỗ trợ từ các tổ chức, đoàn thể. Đồng thời, đặc thù của bạo lực gia đình là nạn nhân và người gây ra hành vi bạo lực cùng sống trong gia đình; nam giới gây ra hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ là chủ yếu, nên người nam giới cần được xem là đối tượng đích trong công tác hòa giải.
Hòa giải thực sự là sự thay đổi từ người có hành vi bạo lực, chứ không phải là sự chấp nhận hay tha thứ từ người chịu bạo lực. Nếu người gây ra hành vi bạo lực sẵn sàng nhận sự giáo dục, giúp đỡ ngăn chặn hành vi bạo lực của mình, cụ thể là chấp nhận hòa giải, tư vấn, thì mối quan hệ bạo lực có thể được thay đổi.
Như vậy, có thể thấy, trong quá trình hòa giải phòng, chống bạo lực gia đình, điều quan trọng nhất là phải lấy phụ nữ, người bị bạo lực làm trung tâm, đặt trong mối quan hệ với các đặc điểm văn hóa, quan hệ giới trong xã hội đương đại. Có như vậy, công tác hòa giải mới có thể mang lại hiệu quả thực sự bền vững, hướng tới xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc.
Nâng cao trình độ, năng lực người hòa giải
Yếu tố quan trọng quyết định sự thành công và bền vững của hòa giải là trình độ, năng lực của người hòa giải. Thực tế cho thấy, các hòa giải viên thường chưa được bồi dưỡng kiến thức về giới và bạo lực gia đình nên nhiều vụ việc hòa giải chưa thực sự phát hiện được bản chất sự việc, chưa hóa giải được mâu thuẫn, do đó, nhiều trường hợp bạo lực tái diễn.
Thậm chí, một số người còn có tư tưởng định kiến giới khi hòa giải theo hướng khuyên nhủ sự nhẫn nhịn của phụ nữ để xây dựng gia đình ấm êm, mà chưa thực sự quan tâm đến tâm lý, tình cảm, quyền của phụ nữ. Cũng chính do trình độ và kỹ năng hòa giải ở cơ sở còn hạn chế, nhiều nạn nhân lo sợ hậu quả đối với chính bản thân và con cái về vật chất và tinh thần.
Bởi người hòa giải nếu không khéo léo, không đủ năng lực hóa giải mâu thuẫn thì khi người hòa giải rời đi, để lại người gây ra hành vi bạo lực và người bị bạo lực cùng chung sống dưới một mái nhà, sẽ gây nhiều nguy cơ cho người bị bạo lực. Vì thế, việc các hòa giải viên được tập huấn về kiến thức, kỹ năng và có chứng chỉ hòa giải viên bạo lực gia đình là cần thiết.
Ngoài ra, do đặc điểm che giấu bạo lực gia đình, nên các trường hợp được phát hiện hay được báo cáo đa phần là nghiêm trọng. Chẳng hạn, các vụ việc bạo lực về thể chất đối với phụ nữ thì tổ hòa giải thường không thể trực tiếp tiến hành hòa giải, mà cần có sự giúp đỡ của lực lượng công an địa phương.
Ngoài việc bảo đảm yếu tố giới, dân tộc thiểu số trong thành phần tổ hòa giải trong Luật Hòa giải ở cơ sở hiện nay, thì việc có đại diện của ngành công an là cần thiết để bảo đảm tính kịp thời của việc hòa giải và tình huống chuyển tiếp thành vụ việc hành chính, hình sự.
Sửa đổi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ hơn nữa cho hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình.
Dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi) năm 2022 nêu các quy định về hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình, nguyên tắc hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình. Quy định này trong dự thảo luật sửa đổi nên được gọi thống nhất như luật hiện hành là “Các nguyên tắc hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình”.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình hiện hành quy định hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp do gia đình, dòng họ tiến hành (Điều 13), do cơ quan tổ chức tiến hành (Điều 14) và do tổ chức hòa giải cơ sở tiến hành (Điều 15). Dự thảo luật sửa đổi có quy định các loại hình hòa giải tương tự. Việc phân chia các loại hình hòa giải như trên là cần thiết, nhằm bảo đảm có sự tham gia đầy đủ của gia đình, cộng đồng, xã hội trong phòng, chống bạo lực gia đình.
Thực tế công tác hòa giải yêu cầu người hòa giải cần có kinh nghiệm, thấu hiểu được những nhu cầu, giá trị, nguyện vọng của cả nạn nhân và người gây ra hành vi bạo lực. Người hòa giải vì thế không chỉ cần am hiểu pháp luật, chính sách, mà còn cần có hiểu biết về văn hóa và các tập quán truyền thống của cộng đồng để có thể bảo đảm tính pháp lý cũng như khả năng hòa giải thành công.
Trên thực tế, đối với hòa giải do gia đình, dòng họ và cơ quan tổ chức tiến hành, các yêu cầu đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở, về kiến thức pháp luật, kỹ năng về phòng, chống bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới trong gia đình, về quyền con người không phải lúc nào cũng được bảo đảm.
Để kịp thời ngăn chặn bạo lực gia đình đang diễn ra, kịp thời bảo vệ sức khỏe, mạng sống cho người bị bạo lực, thì bất kỳ ai trong gia đình, dòng họ, cơ quan, tổ chức chứng kiến hoặc biết vụ việc đều có thể hòa giải ngăn chặn, không bắt buộc bảo đảm có đầy đủ tiêu chuẩn về hòa giải ở cơ sở.
Đối với thành viên tổ hòa giải cơ sở, các yêu cầu về tiêu chuẩn như trên là cần thiết. Bên cạnh đó, luật cần có quy định rõ hơn khi nào thì phải xử lý một tình huống bằng hòa giải thông thường và khi nào thì cần các biện pháp khác, như xử lý hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự.
Luật nên bổ sung các quy định để người tham gia hòa giải của từng loại hình nắm được khi nào cần làm gì cho từng tình huống cụ thể của bạo lực gia đình. Ví dụ, hòa giải của gia đình, dòng họ cho những tình huống nào, khi nào cần báo cáo vụ việc lên chính quyền, khi nào dừng ở hòa giải? Với các cơ quan, tổ chức tham gia hòa giải, cần quy định cụ thể tình huống nào thì hòa giải, khi nào thì báo cáo vụ việc để xử lý.
Đặc biệt, với trẻ em, người cao tuổi hay một số nhóm đặc thù như hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam, cần có các quy định về phòng ngừa, hòa giải và bảo vệ, hỗ trợ trong phòng, chống bạo lực gia đình cụ thể./.
Nguồn: https://giadinhmoi.vn/mot-so-van-de-ve-hoa-giai-trong-phong-chong-bao-luc-gia-dinh-o-nuoc-ta-hien-nay-d78789.html